Tết Trung thu giờ đây đã trở thành ngày hội với mọi gia đình, nhất là trẻ
em. Tết Trung thu đến vào rằm tháng Tám, đang giữa độ mùa thu, mùa mát mẻ và
đẹp nhất trong năm.
theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng
năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng".
Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi,
thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào
ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao,
trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ.
Cho tới ngày nay, dân gian vẫn lưu truyền nhiều sự
tích ý nghĩa liên quan tới ngày lễ đặc biệt này, sau đây là một số sự tích được
nhiều người biết đến.
Sự tích 1:
Theo sách cổ thì Tết Trung Thu bắt đầu từ đời nhà
Đường, thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh. Sách xưa chép rằng, nhân một đêm
rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm
cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép đưa vua
lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày
tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc
rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc
Nghê-Thường vũ y.
Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa
trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về
hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị
xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua
thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát
và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua
mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến
khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm
Trung Thu .
Về sau Tết Trung
Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử
Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi Tết Trung
Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục
này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng
đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh
đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con
giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con
gái tới tuổi lấy chồng.
Sự tích 2:
Hậu Nghệ là một người bất tử, trong khi đó Hằng Nga
là một tiên nữ xinh đẹp sống ở Thiên Đình và phục vụ cho Tây Vương Mẫu. Cả hai
người là vợ chồng. Sắc đẹp của Hằng Nga và sự bất tử của Hậu Nghệ đã làm cho
một số vị thần tiên khác ghanh ghét, và họ đã vu oan một tội lỗi phạm thiên
đình cho Hậu Nghệ trước mặt Vua Nghiêu. Từ đó, Hằng Nga và Hậu Nghệ bị đuổi
khỏi hoàng cung và phải sống cuộc đời thường dân. Từ đó, cuộc sống làm lụng,
săn bắn đã làm cho chàng Hậu Nghệ trở thành một xạ thủ có tiếng trong dân gian.
Bấy giờ, có 10 mặt trời cùng lúc tồn tại, cứ một
mặt trời thì chiếu một ngày, và cứ thay phiên như vậy trong vòng một ngày. Tuy
nhiên, tai họa ập đến, một ngày kia cả 10 mặt trời cùng xuất hiện trong một
ngày và đã thiêu cháy hầu hết sinh linh trên mặt đất. Trước hoàn cảnh “ngàn cân
treo sợi tóc” trên, Vua Nghiêu đã sai Hậu Nghệ bắn rơi 9 mặt trời chỉ để một
cái lại mà thôi. Chàng Hậu Nghệ đã hoàn thành sứ mạng xuất sắc.
Để đáp lại, Vua Nghiêu đã cho chàng một viên thuốc
trường sinh bất lão và dặn rằng “Tạm thời không được uống cái này vào, hay bắt
đầu cầu nguyện và ăn chay trong một năm sau đó mới được uống”. Hậu Nghệ làm
theo, chàng đem viên thuốc về nhà và giấu nó ở cái rui trên nóc nhà và tự khổ
luyện tinh thần. Được khoảng nửa năm, Vua Nghiêu mời chàng đến kinh thành
“chơi” . Hằng Nga ở nhà thì bỗng lưu ý đến một vật sáng lóng lánh trên mái nhà
và phát hiện ra viên linh dược, sau đó, biết là linh dược, nàng đã uống ngay
viên thuốc cũng đúng lúc Hậu Nghệ vừa về đến và ngay tức khắc chàng đã biết
chuyện gì đã xảy ra. Nhưng tất cả đã quá muộn, Hằng Nga bắt đầu bay về trời.
Với chiếc nỏ trong tay, Hậu Nghệ đuổi theo Hằng
Nga. Nhưng đi được đến nửa đường thì thần Gió đã cản chàng lại mặc cho nàng
tiên nữ xinh đẹp kia bay đến mặt trăng. Khi vừa đến nơi Hằng Nga bỗng không thở
được và viên thuốc bỗng văng ra. Kể từ đó, Hằng Nga mãi ở trên mặt trăng không
thể nào trở lại. Truyền thuyết còn kể lại rằng nàng đã kêu gọi những con thỏ ở
mặt trăng tạo ra viên thuốc giống như vậy để nàng còn quay về với người chồng
ngày đêm mong nhớ, nhưng tất cả đều vô dụng.
Trong khi đó, ở dương thế, sự mong nhớ và nỗi hối
hận ngày đêm cồn cào Hậu Nghệ. Cuối cùng, chàng xây một lâu đài trong mặt trời
và đặt tên là “Dương”, trong khi đó thì Hằng Nga cũng xây một lâu đài tương tự
đặt tên là “Âm”. Cứ mỗi năm một lần, vào ngày rằm tháng 8, hai người được đoàn
viên trong niềm hân hoan hạnh phúc. Chính vì thế mà mặt trăng luôn thật tròn và
thật sáng vào ngày này như đê nói đến niềm vui, sự hân hoan khi được gặp mặt
của con người.
Đây là tài liệu có trong truyền thuyết Trung Quốc khá phổ biến ở thời Tây
Hán(206 TCN – 24 SCN).
Sự tích 3:
Một truyền thuyết khác đã cho rằng: Hằng Nga và Hậu
Nghệ đều là những vị thần bất tử sống trên thiên đình. Một ngày kia, người con
trai thứ 10 của Ngọc Hoàng đã phân thân thành mười mặt trời từ đó gây nên thảm
kịch cho loài người. Trước tình hình đó, Hậu Nghệ, với tài bắn tên của mình đã
bắn rơi 9 mặt trời nhưng vì tình cảm, đã tha chết cho bản thể thứ 10 của con
trai của Ngọc Hoàng. Dĩ nhiên, Ngọc Hoàng không chấp nhận và rất phật ý. Ông ta
đã trừng phạt Hậu Nghệ và Hằng Nga bằng cách bắt họ phải sống cuộc đời con
người ở trần thế.
Sau khi xuống trần thế, hối tiếc cuộc sống bất tử
đã qua, Hậu Nghệ đã bỏ nhà ra đi tìm thứ thuốc có thể trường sinh bất lão. Cuối
cùng, chàng tìm thấy Tây Vương Mẫu, bà đã cho Hậu Nghệ linh dược, nhưng dặn
rằng: mỗi người chỉ nên uống nửa viên để có được sự sống trường tồn.
Hậu Nghệ đem viên thuốc về nhà và để nó trong một chiếc lọ. Chàng đã cảnh báo
Hằng Nga không được mở chiếc lọ ra để xem trong đó có gì và đi săn bắn trong
vài tháng. Cũng giống như Pandora trong Thần Thoại Hi Lạp. Sự tò mò đã làm Hằng
Nga mở chiệc lọ và tìm thấy viên thuốc, dĩ nhiên nàng đã uống hết viên linh
dược mà không biết rằng mỗi người chỉ nên uống nửa viên. Hậu quả thật tai hại,
Hằng Nga đã bay về mặt trăng mà không thể cứu vãn được. Kể từ đó cả hai người
đã phải sống trong tình cảnh chia lìa, ngăn cách.
Ở Khía cạnh lịch sử, Tết Trung Thu được cho là thời
điểm kỷ niệm của quân Minh chống lại quân Nguyên vào đầu thế kỷ XIV. Vào thời
đó, quân Minh đang nổi dậy chống lại triều đình nhà Nguyên chính vì vậy, việc
tụ tập tại những nơi công cộng bị cấm. Thế nên nghĩa quân không thể liên lạc
được. Một vị tướng của quân Minh thời đó nhận thấy rằng người Mông Cổ không ăn
Bánh Trung Thu, chính vì thế ông ta đã mở một tiệm bán bánh và trong mỗi cái
bánh là một miếng giấy nhỏ viết rằng: “Giết tất cả bọn Mông Cổ vào ngày 15
tháng 8”. Đêm trung thu năm đó, quân Minh đã tiêu diệt được quân Nguyên và
giành chính quyền. Và sau đó là việc thành lập triều đại Nhà Minh( 1368 –
1644), dưới sự thống lĩnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương. Kể từ đó, Bánh Trung
Thu không chỉ có giá trị ở khía cạnh văn hóa mà nó còn chứa đựng trong nó lòng
tự hào dân tộc của người Trung Quốc.
Chính vì những lý do đó, Tết Trung Thu trở nên một phần không thể thiếu của
nền văn hóa Trung Quốc đến nỗi ngày nay rất nhiều người Trung Quốc đặt tên cho
con gái họ là Nguyệt với ước mong con gái họ sẽ xinh đẹp, trong sáng và đầy đặn
như mặt trăng vậy.
Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt
trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh
"đoàn viên", bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để
cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng thu trong trẻo và bầu không khí ấm
áp của đêm rằm đến với mọi nhà.
Đêm Trung thu, các em rước đèn, múa sư tử. Ngoài
Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là múa lân. Lân còn gọi là kỳ lân. Kỳ là
tên con đực, lân là tên con cái. Lân là con vật đứng thứ hai trong tứ linh:
long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phượng hoàng). Lân là con vật thần thoại,
thân hươu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng ở ngay giữa
trán, lông trên lưng ngũ sắc, lông dưới bụng màu vàng. Tục truyền, lân là con
vật hiền lành, chỉ có người tốt mới nhìn thấy nó được. Thoạt nhìn, đầu lân
giống đầu sư tử. Do vậy, người ta gọi múa lân thành múa sư tử.
Bên cạnh đó, một vài địa phương, có tục các em rước đèn kéo quân trong dịp Tết
Trung thu. Đèn kéo quân hình vuông, cao khoảng 80cm, rộng mỗi bề khoảng 50cm.
Bốn mặt đều phết giấy Tàu bạch như giấy bóng mờ hiện nay. Phía trên và phía
dưới có đường viền sặc sỡ. Bên trong có một tán giấy hình tròn. Khi đốt đèn,
hơi lửa bốc lên, tán giấy xoay quanh. Đèn kéo quân còn gọi là đèn chạy quân vì
hình đoàn quân cứ liên tục kéo đi, chạy đi không ngừng hết vòng nọ đến vòng
kia. Chỉ khi nào đèn hết dầu (nến), đèn tắt thì các tán không quay nữa. Đèn có
bốn mặt, hình ảnh xem ở mặt nào cũng được.
Trẻ em rất thích ăn bánh Trung thu, múa lân và rước
đèn kéo quân. Từ đó, Tết Trung thu nghiễm nhiên trở thành Tết của các em từ hàng ngàn năm nay.
Ở Việt Nam, từ đầu tháng, người ta đã chuẩn bị
những cỗ đèn muôn màu, muôn sắc, hình thù độc đáo, các đồ chơi của trẻ nhất là
hình ông tiến sĩ giấy cùng bánh dẻo, bánh nướng, gọi chung là bánh trung thu để
đón Tết. Trẻ em mang những lồng đèn màu sắc sặc sỡ thắp sáng thành từng đoàn
dài kéo nhau đi các thôn ngõ để ca hát reo vui dưới ánh trăng. Khi những ngày
Rằm cận kề, các đoàn múa lân, múa sư tử rầm rộ với tiếng kèn, tiếng trống,
tiếng pháo càng thêm náo nhiệt.
Video
giới thiệu bánh trung thu khách sạn Hà Nội Đảm bảo vệ sinh An toàn thực
phẩm
>>>
Chuyên cung cấp các loại bánh Trung Thu cao cấp là quà tặng;
>>> Liên hệ: 024. 85886151 – 0986122292
# Giao hàng
toàn quốc, miễn phí tại Hà Nội
Mời các bạn xem thêm:
http://banhtrungthupanpacific.com/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét